Trong cuộc đời tu tập, mỗi vị xuất gia đều có chí hướng hoằng pháp lợi sanh, nhưng để làm được điều này đòi hỏi phải có rất nhiều nguyên tố. Đó là đức khiêm cung, nâng cao đạo lực, tránh ngã mãn và cần có một tâm tu vững vàng…
Để hiểu hơn về vấn đề này, phóng viên Báo điện tử Gia Đình Việt Nam đã có buổi trao đổi với Đại đức TS Thích Giác Hoàng, đang tu tập tại Tịnh xá Trung tâm quận Bình Thạnh (TP HCM).
Người tu học điều quan trọng là cần cố kỉnh hết mình và để ý đức khiêm cung
Gắng tầm tu tìm đạo
Thưa Đại đức, Sư có thể san sớt một chút về con đường tầm tu học đạo mà bản thân đã qua?
Sư mất mẹ sớm, cha phát tâm xuống tóc tu học theo giáo pháp Khất sĩ Việt Nam. Cho nên năm 10 tuổi, nhận thấy con đường cao đẹp của đức Phật đưa ra, Sư quyết định đến Tịnh xá Ngọc Túc (xã Cư An huyện Đăkpơ – Gia Lai) xin được vào tập tu. Đây là dịp rằm tháng 4 năm Canh Thân (Phật đản – 1980).
Suốt thời gian tu tập ở Tịnh xá Ngọc Túc, Sư được Ni trưởng Cảnh Liên, Trụ trì Tịnh xá cùng Chư tôn đức Ni nuôi dưỡng và cho theo học các lớp phổ quát ngoài đời. Đến khi tốt nghiệp cấp 3, Sư được Ni trưởng gởi lên Hòa thượng Giác Phúc - Trụ trì Tịnh xá Ngọc Phúc (TP Pleiku – Gia Lai) để tiếp tục học đạo. Tại đây Sư được Hòa thượng nhận làm môn đồ và cho thụ giới làm một vị Sa di, năm 1990.
Cũng năm này, Sư được Hòa thượng cho lên TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng để theo học lớp Cơ bản Phật học lần trước tiên được mở và ở tại Tịnh xá Ngọc Đà do Thượng tọa Giác Minh làm trụ trì.
Hơn 1 năm rưỡi theo học lớp sơ cấp, Sư được quý thầy cho xuống thi tuyển vào khóa III của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP HCM lúc bấy giờ là Trường cao cấp Phật học Việt Nam, kết quả đậu khá cao.
Đến năm 1997, lấy được bằng cử nhân Phật học, Sư được sự ưu ái của quý Hòa thượng của Hệ phái, Chư tôn đức trong Giáo đoàn và Hòa thượng Bổn sư, Sư được giới thiệu đi du học tại Ấn Độ.
Trải qua 2 năm cố tu học, Sư lấy được bằng Thạc sĩ. Sau đó học tiếp thêm 5 năm, Sư tốt nghiệp với học vị Tiến sĩ Tôn giáo học tại Punjabi University thuộc bang Punjab, Ấn Độ.
Người xuất gia phái thấy được cái chân giá trị của Phật pháp để vượt qua và biết cách để hành đạo
Sau khi học xong, Đại đức đã có những cống hiến nào trong Giáo hội?
Thời kì đầu sau khi đã học xong, Sư vẫn muốn tìm hiểu thêm về sự tu tập và phương pháp thiền quán tại các Trung tâm thiền của các nước.
Chính do vậy Sư đã quyết định đi đến Tích Lan, Miến Điện… tìm hiểu về môi trường Phật giáo của các nước, tham khảo các chương trình học thuật, cơ chế quản lý cũng như phương pháp tu tập của các truyền thống thiền viện…
Nhờ những hành trang này mà dầu cho sau này khi Sư về nước làm các công tác Phật sự có vấp phải những khó khăn, rào cản… vẫn thấy được cái chân giá trị của Phật pháp để vượt qua và biết cách để thực hành.
Thời gian về nước, Sư phụ của Sư là Thượng tọa Giác Minh xây dựng ngôi Tam Bảo - Tịnh xá Ngọc Đà (TP Đà Lạt – Lâm Đồng), vì lúc đó Ngài bận đi nước ngoài, các sư đệ thì còn nhỏ. Sau đó, trong mùa an cư kiết hạ năm 2006, Hòa thượng Giác Toàn đề nghị Sư xuống TP HCM tham dự các hoạt động Phật sự của Hệ phái. Cũng thời kì này Sư được mời làm giảng viên của Học viện Phật giáo Việt Nam, dự ban dịch thuật trong kỳ Đại lễ Vesak 2008 của Giáo hội…
Nhờ sự nạm dấn thân và hết lòng trong các hoạt động Phật sự của Giáo hội, Hệ phái và Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP HCM… Sư được đề cử làm Phó Phòng Hành chánh (2009 – 2013) tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM, Ủy viên thường trực Ban giáo dục Tăng Ni trung ương, Ủy viên Ban iOnline 302 Hoằng pháp trung ương của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng khoa Đào tạo từ xa… Và bây chừ sau khi tái nhiệm kỳ, Sư đã được mời làm Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh văn phòng của Học viện song song làm Trưởng khoa Đào tạo từ xa.
Tại Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Sư được mời làm Phó văn phòng. Ngoài ra trong kỳ Đại hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VII vừa qua, Sư cũng được Chư tôn đức Hệ phái giới thiệu vào Uỷ viên Hội Đồng Trị Sự dự khuyết.
Cần phải có đạo lực, tâm tu và sự khiêm cung
Trong con đường tu học tâm linh, những ảnh hưởng nào đã tác động đến đại đức để có được thành công hiện thời?
Trong suốt thời kì sống trong giáo pháp, những ảnh hưởng lớn đối với tâm tu học của Sư đó là: Sư có duyên phước gặp được nhiều vị tôn túc giáo dưỡng và bảo bọc. Cụ thể như cố Hòa thượng Giác Dũng – Đệ tứ Trưởng giáo đoàn III. Lúc đó Ngài tuy chỉ là một vị Thượng tọa thôi nhưng với gương hạnh, tấm lòng bao dong đức độ đã để lại cho trong lòng Sư một ấn tượng đẹp về các bậc tôn túc.
Rồi các vị Hòa thượng Giác Thành, Thượng tọa Giác Trí, Thượng tọa Giác Minh… lúc đó là Giảng sư đoàn đã gợi lên trong sư sự nuôi dưỡng chí hướng sau này sẽ phải nuốm trở nên Giảng sư để đóng góp cho Giáo hội.
Hay Hòa thượng Giác Phúc (Tịnh xá Ngọc Phúc – Gia Lại), Hòa thượng Giác Toàn (Tịnh xá Trung tâm - quận Bình Thạnh, TP HCM)… đã có những góp sức để Sư nổ lực thành công trong việc học tập và tu đạo…
Riêng người có ảnh hướng lớn nhất với Sư là Ni trưởng Trụ trì Tịnh xá Ngọc Túc đã săn sóc nuôi dưỡng, cho đi học khi bản thân còn nhỏ, dù rằng kinh tế của trú xứ lúc đó rất khó khăn.
Ngoài ra, trong thời gian 2 năm du học thạc sĩ tại Ấn Độ, được sự san sẻ của Thượng tọa Minh Thành, cùng Đại đức Minh Diệu đã thành lập nên ngôi nhà tập thể. Hiện thời đã trở nên ngôi nhà chung - truyền thống của Hệ phái từ đó đến Bây giờ.
Bên cạnh đó, việc tham gia tu tập theo pháp môn của thiền phái Vipassana cũng giúp Sư nhận thấy được cái chân giá trị của giáo pháp Khất sĩ. Đó là con đường của ông cha Minh Đăng Quang, con đường các đức Thầy, các bậc tôn túc chân tu. Điều này phải phát xuất từ việc tu tập trong những khu rừng già, những thiền viện nghiêm minh, đời sống sáng khất thực hóa duyên, sau đó về ngồi thiền, thiền hành, học pháp… do đó mà tâm đạo của Sư được cũng cố hơn.
Theo Đại đức, điều gì đối với các Tăng Ni trẻ là quan yếu nhất?
Tâm nguyện của người xuống tóc là lấy việc hoằng pháp làm sự nghiệp chính. Vì thế ngay từ nhỏ Sư cũng đã có tâm nguyện đem đạo giúp đời.
Tuy nhiên khi Sư lớn lên, tự xét thấy năng lực của mình có hạn chế và việc hoằng pháp là việc lớn lao, đòi hỏi phải có đạo lực, tâm tu vững và đức khiêm cung mới có thể chuyển tải hết được chân lý của Phật, ý Tổ đến quần chúng. # Được. Chính cho nên, bản thân Sư khi còn đi học rất e sợ, không dám thể hiện nhiều về điều này.
Đến khi học xong, lớn lên với bổn phận vai trò giảng dạy, rồi phải đi giảng thế cho các Chư Tôn đức, cộng với cái duyên của việc hoằng pháp nên phải làm, chẳng thể không làm. Nên chi Sư luôn phải học thêm, tự ráng tu tập hơn nữa, vắt hết mình trong việc hoằng pháp.
Theo Sư, việc hoằng pháp rất là cao quý nên cần thì miêu tả, còn không thì cứ lặng lẽ tu, cần phải luôn luôn nhìn lại bản thân để không rơi vào cái tâm ngã mạn, tự đắc, tự kiêu. Đó là định hướng lý tưởng mà Sư luôn đặt ra cho bản thân.
Mỗi người xuất gia phải tự thay tu tập hơn nữa, thế hết mình trong việc hoằng pháp lợi sanh
Đại đức thấy giới trẻ hiện nay đến với Phật pháp thế nào ạ?
Trong những năm gần đây, giới trẻ đã biết quay về với Phật pháp và cống hiến rất là nhiều. Điều này là một dấu hiệu đáng mừng vì tre tàn măng phải mọc, lớp lớp đi theo con đường tâm linh … nếu không vậy thì giáo pháp của Phật chẳng thể đến được với mỗi giai tầng trong tầng lớp.
Trong những năm gần đây từ các khóa tu học của thầy Nhật Từ, thầy Thiện Huệ, rồi của báo Giác Ngộ, chùa Hoằng Pháp, ở Hà Nội.., Những câu lạc bộ Phật pháp ra đời … Qua đó cho thấy giới trẻ đã đến với Phật pháp bằng nhiều cách khác nhau và đây là đối tượng mà Giáo hội rất quan hoài.
Nếu Giáo hội quan hoài đúng mức, định hướng đúng mực thì giới trẻ sẽ là những nguyên tố cống hiến cho giáo hội rất nhiều. Đây sẽ là nền móng cho những ngày tháng về sau để các giai tầng trong xã hội được sống trong môi trường đạo đức hơn, nhân bản hơn
Xin cảm ơn Đại đức!
Minh Thiện (thực hành)